Sau
khi chương trình Việt Nam hóa chiến tranh được thành hình thì Trung Ðội
Dân Sự Chiến Ðấu đóng ở trên đồi Hoa Sim được giải tán. Trung Ðội này
trước đây chuyên
lo phụ trách về vấn đề phòng thủ an ninh những nơi như Bộ Chỉ Huy Sở
Phòng Vệ Duyên Hải (SPVDH/NKT/BTTM), Căn Cứ Trần Hưng Ðạo của Lực Lượng
Hải Tuần và Trại 9 của Lực Lượng Biệt Hải (còn gọi là Blackrock). Ðồi
Hoa Sim sau đó được chuyển giao cho các toán
Biệt Hải, còn Trại 9 của Biệt Hải ở Sơn Trà thì được Bộ Chỉ Huy Biệt
Hải bàn giao lại cho các Chiến Ðoàn Công Tác, thuộc Nha Kỹ Thuật/BTTM
trú đóng.
Trại Tiên Sa, Đà Nẵng - Sở Phòng Vệ Duyên Hải
Từ
trong Ngã Ba Tiên Sa (Ðà Nẵng) đi ra, vừa qua khỏi trạm gác Ðài Kiểm
Báo Không quân (còn gọi là Cầu Trắng) là trông thấy căn cứ Ðồi Hoa Sim,
được đặt trên
một mỏm núi khá thấp, nằm về bên phải và cách Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I
Duyên Hải của Phó Ðề Ðốc Hồ Văn Kỳ Thoại một con đường. Trước đây, Phó
Ðề Ðốc Thoại đã từng là Chỉ Huy Trưởng của Sở Phòng Vệ Duyên Hải khi còn
ở cấp bậc đại tá. Trái ngược với một số
tin tức bên ngoài đơn vị cho rằng Lực Lượng Biệt Hải (LLBH) đã được
giải thể khi Hoa Kỳ rút quân về nước năm 1972, thực tế đã cho chúng ta
thấy rằng sau khi được dời về trú đóng trên Ðồi Hoa Sim, các công tác
hoạt động của Lực Lượng Biệt Hải vẫn còn tiếp tục
và trực thuộc Sở Phòng Vệ Duyên Hải/Nha Kỹ Thuật cho đến ngày cuối
cùng. Bằng chứng là sau ngày đi công tác Hoàng Sa về ngày 10-4-1974, tôi
nhận được văn thư của Sở mang số 0259/TTM/NKT/SPVDH/CTCT, tuyển chọn
tôi (Nguyễn Châu) trong số 132 chiến sĩ xuất sắc
nhất của QLVNCH trên toàn quốc để về thủ đô Sài Gòn tham dự ngày Quân
Lực 19-6-1974.
Trở
lại việc Biệt Hải tham chiến Hoàng Sa, trong thời gian tôi đang nghỉ
phép vào một buổi sáng đẹp trời thì nhận được lệnh từ Bộ Chỉ Huy Biệt
Hải nhắn, cho
biết phải cấp tốc trở về trình diện đơn vị gấp để chuẩn bị đi công tác.
Kinh nghiệm trước đây cho tôi biết mỗi lần được gọi khẩn cấp như thế
này thường là những công tác hết sức khó khăn, chẳng hạn như chuyến đi
cứu các phi công Hoa Kỳ bị bắn rơi tại sông
Cam Lộ, Quảng Trị-Ðông Hà vào tháng 4 năm 1972 trong Mùa Hè đỏ lửa. Lúc
đó, toán của tôi chỉ có năm, sáu người nhưng đã phải len lỏi qua mặt
mấy Sư Ðoàn Bắc Việt đi vào địa điểm công tác để đưa được hai phi công
Hoa Kỳ trở ra an toàn, mãi cho đến nay vẫn còn
hú vía! Sau khi nhận được tin lòng tôi cứ thấp thỏm suy nghĩ, không
biết chuyện gì đã xẩy ra? Tôi vội mang quần áo, hôn phớt các con rồi từ
giã bà xã lặng lẽ ra xe. Khi vào đến trại thì mới biết anh em trong toán
đang chuẩn bị súng đạn xuống tàu để ra công
tác Hoàng Sa trong vài giờ tới.
Chuyến
đi này tổng cộng có 24 nhân viên Biệt Hải, trong số đó có Chỉ Huy
Trưởng Biệt Hải Thiếu Tá Hồ Xuân T., Trưởng Toán Nguyễn N. và tôi, toán
phó kiêm tiền
sát viên toán, tất cả đều trang bị toàn súng AK-47. Ngoài ra, mỗi người
còn được phép mang thêm mấy khẩu M-72. Ðược biết chiếc HQ-4 Trần Khánh
Dư sẽ phụ trách chở toán Biệt Hải của chúng tôi tới địa điểm công tác.
Trong khi toán nhận lệnh đi Hoàng Sa thì tôi
không có mặt ở trong trại. Do đó, trước khi sắp sửa lên xe, tôi được
Chỉ Huy Trưởng T. và Trưởng Toán N. cho biết sơ qua tình hình trên các
hải đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa. Ðược biết trên các hải đảo này hiện
đang có một Trung đội Ðịa Phương Quân và một số
chuyên viên khí tượng của VNCH trú đóng. Lần này, toán Biệt Hải nhận
lệnh đổ bộ để lấy lại chủ quyền và kiểm soát các vị trí trên đảo, nơi
đang có những đơn vị của Hải Quân Trung Cộng chiếm giữ.
Chiếc
Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư HQ-4 do Hạm Trưởng Vũ Hữu San được lệnh khởi
hành, rời bến tàu Bộ Tư Lệnh Vùng I Duyên Hải vào sáng sớm hôm đó. Ðến
xế chiều
thì vị trí của tàu không còn cách xa hải đảo Hoàng Sa là bao. Nghĩa là
hiện chiếc HQ-4 đang nằm trong phạm vi của nhóm đảo Cam Tuyền và Quang
Hòa. Vào buổi chiều cùng ngày, 17 tháng Giêng năm 1974, Khu Trục Hạm
HQ-4 đã bắt gặp 2 giang thuyền của Hải Quân Trung
Cộng, đang giả dạng làm các ghe thuyền đánh cá. Trên đài chỉ huy, Hạm
Trưởng liền cho tàu chạy đến gần để tìm cách kiểm soát. Trong khi đó
toán Biệt Hải cùng một số thủy thủ, tất cả đứng trên thành tàu chăm chú
theo dõi đều nhận thấy 2 giang thuyền Trung Cộng
có nhiều điểm đáng nghi ngờ. Ngay lúc đó, Ðài Chỉ Huy trên HQ-4 phóng
loa kêu gọi 2 giang thuyền Trung Cộng ngừng lại nhưng họ vẫn tỉnh khô và
phớt lờ! Trong ý tưởng của anh em Biệt Hải lúc ấy rất muốn được cấp
trên cho phép nhảy xuống để làm phận sự lục soát
các giang thuyền này, tương tự như những chuyến Loky soát ghe bắt người
tại vịnh Bắc Việt trước đây.
Lúc
này, chiếc HQ-4 và một chiếc giang thuyền của Trung Cộng đều đã chạy
chậm lại, khoảng cách cuối cùng cách nhau không quá một thước! Tuy
nhiên, lệnh của Hạm
Trưởng không cho anh em nhảy xuống tầu Trung Cộng lục soát. Bất thình
lình, một con sóng lớn ập đến khiến hai chiếc tàu húc mạnh vào nhau.
Chiếc tầu của Trung cộng thấp hơn nên lan can tầu của chúng bị hư hại
khá nặng. Do đó, các thủy thủ Trung Cộng dưới tàu
nổi nóng, một số xắn cao tay áo, còn một số thì cởi hẳn áo ra vất xuống
sàn tàu, ra dấu thách thức thủy thủ và toán Biệt Hải chúng tôi nhảy
xuống đánh tay đôi với chúng. Ðứng trên tàu, toán Biệt Hải thấy vậy liền
cởi áo và kêu gọi đám thủy thủ Trung Cộng ở
dưới tầu trèo lên nếu chúng muốn đọ sức. Ðây là màn khẩu chiến đầu tiên
trong buổi chiều hai bên gặp nhau! Sau đó, chiếc HQ-4 và giang thuyền
Trung Cộng tiếp tục tìm cách chạy ghìm nhau một lúc lâu mới dứt.
Hôm
sau, ngày 18-1-74 lúc xế trưa, toán Biệt Hải gồm 24 người, có cả Thiếu
Tá Chỉ Huy Trưởng Biệt Hải đi theo, tất cả súng đạn đầy đủ nhận lệnh
xuống 3 chiếc
hobo thẳng hướng chạy vào đổ bộ lên đảo Cam Tuyền (Robert). Sau khi đi
lục soát một vòng không thấy có quân Trung Cộng trú đóng, toán Biệt Hải
đã khám phá và tịch thu được một lá cờ của Trung cộng hơi cũ, cùng một
tấm bảng chủ quyền viết bằng chữ Hán, nét
mực còn mới cắm trên đảo trước khi toán Biệt Hải đổ bộ vào. Ngoài ra,
không còn thấy dấu vết gì khác, ngoại trừ những cây cối lưa thưa mọc cao
không quá đầu người và một số cỏ gai nhọn chết khô lâu ngày, được gió
biển cuốn tròn nằm lăn lóc trên mặt đất san
hô và vô số phân chim! Tất cả những chi tiết trên đảo đã được vị Chỉ
Huy Trưởng Biệt Hải thông báo ra cho Hạm Trưởng ngoài tầu biết. Sau khi
toán Biệt Hải đi ra và lên hết trên tầu rồi thì một số anh em Hải Quân
lại được lệnh đổ bộ vào để canh giữ đảo Cam
Tuyền. Chiếc HQ-4 được lệnh tiếp tục chạy sang hải phận của đảo Quang
Hòa (Duncan). Suốt đêm đó, trên tầu đã cho mở nhiều bản nhạc hùng ca,
toàn lời hay ý đẹp như để nhắc nhở bổn phận của người lính Hải
Quân/QLVNCH phải hết sức giữ gìn lãnh hải và hải đảo
Hoàng Sa do tiền nhân để lại, dù có phải hy sinh tánh mạng đã làm nức
lòng người nghe, trong đó có toán Biệt Hải chúng tôi.
Sáng
sớm ngày 19 Tháng Giêng năm 1974, lúc 5 giờ 40 sáng, toán Biệt Hải tiếp
tục nhận lệnh đổ bộ lên đảo Quang Hòa (Duncan). Toán Biệt Hải của chúng
tôi đã vào
được đến bờ nhưng trời còn tối nên tất cả được lệnh nằm trên bờ biển
chờ trời sáng. Phần lính gác Trung Cộng có lẽ không ngờ toán Biệt Hải đổ
quân ban đêm nên không để ý và không hay biết gì cả. Trước khi xuống
thuyền vào đảo, chúng tôi được cấp trên cho biết
trên đảo hiện đang có quân Trung Cộng trú đóng. Ðến nơi, thừa lúc trời
còn tối, tôi liền dẫn vài anh em đi một vòng lục soát trong phạm vi của
toán, để có gì khi đụng trận sẽ dễ dàng bảo vệ nhau hơn.
Lúc
7 giờ 30 sáng, khi mặt trời hướng Ðông bắt đầu ló dạng, tôi, trong
nhiệm vụ tiền sát đi đầu mon men dò dẫm đã phát giác ra được một giao
thông hào do quân
Trung cộng đào sẵn. Tôi tiếp tục dẫn toán đi lên, nhưng vừa đi được
khoảng 60 hoặc 70 thước thì gặp quân của Trung cộng đang đứng chận đầu.
Hai bên thấy mặt nhau nhưng không bên nào nổ súng! Phía trước mặt, hiện
chúng tôi đã nhận diện được quân số của Trung
Cộng khá đông, tất cả chúng đều nằm dưới các hầm phòng thủ trong tư thế
sẵn sàng tác chiến, chăm chú nhìn chúng tôi ra vẻ nghi ngờ, không biết
chúng tôi là phe nào? Lý do là vì cách trang phục của toán Biệt Hải hao
hao giống bộ đội du kích Bắc Việt, kể cả
vũ khí trang bị.
Đổ bộ vào đảo Hoàng Sa
Khi
khoảng cách hai bên cách nhau không tới 4 mét thì vào lúc này, một số
cấp chỉ huy và lính Trung Cộng rời hầm phòng thủ vừa đi ra, vừa nói bằng
tiếng Hoa
và đồng thời lấy tay ra dấu đuổi toán Biệt Hải chúng tôi rời khỏi phạm
vi hải đảo. Ý chúng muốn nói đảo Quang Hòa thuộc chủ quyền của Trung
cộng, muốn chiếm thì đi sang đảo khác! Ngược lại, toán Biệt Hải của
chúng tôi cũng ra dấu đáp trả, ý nói đảo nầy thuộc
chủ quyền của VNCH, quân Trung cộng phải rời khỏi đảo. Một bên tiếng
Tầu, một bên tiếng Việt, lúc đầu không ai hiểu ai. Có lúc lời qua tiếng
lại rất hăng, hai bên đã quơ tay đụng nhau. Rất may, trong toán Biệt Hải
có một người Việt gốc Hoa tên Trần A Lộc,
nói và hiểu được tiếng Hoa sành sỏi đứng ra thông dịch.
Nãy
giờ, hai bên đứng khẩu chiến với nhau đã gần một tiếng. Tình thế lúc
bấy giờ hết sức căng thẳng, nhất là quân Trung Cộng nhờ sự thông dịch
biết được toán
Biệt Hải chúng tôi đang đứng trước mặt quyết tâm dành lại chủ quyền
trên đảo của chúng. Một số lính Trung Cộng liền có thái độ rất hung
hăng, nhưng rất may cuộc chạm súng của đôi bên đã không xẩy ra. Nếu
không, sự thiệt hại của Biệt Hải chắc chắn không phải
là nhỏ. Thấy vậy, Trưởng Toán N. liền hội ý với vị Chỉ Huy Trưởng Biệt
Hải và ông đã gọi ra tầu, báo cáo cho Hạm Trưởng để trình bày sự việc.
Ngoài tầu lệnh cho toán Biệt Hải rút lui. Trước khi đi, tôi đã tìm một
nhánh cây khô buộc lá cờ VNCH vào rồi cắm xuống
trước mặt bọn chúng.
Ít
phút sau, toán Biệt Hải xuống thuyền đi ra được nửa chừng thì gặp toán
Hải Kích của Trung Úy Ðơn từ ngoài chạy vào. Chúng tôi liền mở máy liên
lạc và cho
Trung Úy Ðơn biết tình hình của quân Trung cộng ở trên bờ. Sau khi toán
Biệt Hải lên được tầu HQ-4 thì bỗng nhiên nghe tin toán Hải Kích của
Trung Úy Ðơn vừa có hai người bị tử thương ở phía ngoài bờ biển. Biết
tình thế hiện tại thế nào cũng đánh nhau, tôi
xin đề nghị Chỉ Huy Trưởng Biệt Hải lên đài chỉ huy trình với Hạm
Trưởng: Khi nào sẵn sàng khai hỏa thì cho HQ-4 chạy sát gần tầu của
Trung Cộng, khoảng cách từ 50m đến 100m để toán Biệt Hải chúng tôi dùng
M-72 bất ngờ triệt hạ các tàu của chúng. Theo ý tôi,
đây là cơ hội bằng vàng để tiêu diệt bọn lính Trung Cộng, nhưng cuối
cùng ý kiến của tôi đã không được Hạm Trưởng chấp thuận. Ngoài ra, Hạm
Trưởng còn cho biết khi nào có hải chiến thì sẽ dùng súng lớn và chạy
cách xa tầu Trung cộng khoảng 300m.
Ðến
khoảng hơn 10 giờ sáng thì lệnh khai hỏa bắt đầu. Khẩu đại bác 76.2ly
của HQ-4 ở giữa boong, gần đầu mũi tầu chỉ bắn được 9, 10 quả đạn thì bị
trở ngại tác
xạ! Ngay lúc đó, tôi bị một mảnh đạn văng trúng vào đầu, máu chẩy xuống
che đầy hai mí mắt. Tôi vội đứng nấp sau khẩu súng lớn đã bị hư hại,
lấy khăn lau sạch vết thương rồi tìm y tá nhờ băng bó, và sau đó trở lại
vị trí các ổ súng lớn trợ giúp các pháo thủ.
Trong lúc 2 bên đang giao tranh dữ dội, quay mặt lại, tôi thoáng thấy
Biệt Hải Nguyễn Văn Vượng bị thương khá nặng, đang được anh em dìu vào
phía trong. Cuộc hải chiến tiếp tục mãi cho đến 30 phút sau mới chấm
dứt. Chiếc HQ-4 được lệnh rời khỏi vùng chiến,
quay mũi theo hướng Nam đi về Ðà Nẵng. Khi tầu đã đi được hơn mấy tiếng
đồng hồ và đã khá xa quần đảo Hoàng Sa thì bỗng nhiên không hiểu vì một
lý do gì, HQ-4 lại được lệnh phải trở lại vùng hải chiến với tàu của
Trung Cộng lúc buổi sáng! Tôi đoán lúc đó vào
khoảng 1 giờ trưa.
Nghe
tin này, một số anh em bị thương nặng tỏ vẻ xúc động. Một số anh em
khác tuy bị thương nhưng còn khả năng tác chiến thì được lệnh sẵn sàng
trở vào vị trí.
Toán Biệt Hải lúc ấy được đặt dưới quyền của Hạm Trưởng, đưa bổ sung
vào các chỗ khiếm khuyết trên tầu tùy theo khả năng. Phần tôi tuy bị
thương nhưng vẫn được giao sử dụng một cây đại liên 50. Sau khi nhận
lệnh, chiếc HQ-4 quay đầu trở lại theo hướng Ðông-Bắc,
trực chỉ quần đảo Hoàng Sa để tái nhập cuộc. Tuy nhiên sau khoảng hơn
một tiếng hải hành, HQ-4 lại được lệnh quay trở về Ðà Nẵng lần thứ nhì!
Toán Biệt Hải chúng tôi nghe loáng thoáng lý do đang có máy bay MIG và
tầu chiến của Trung Cộng từ Hải Nam bay qua
trợ chiến quân đội của chúng trên quần đảo Hoàng Sa.
Mãi
cho đến sau này, sau khi đã định cư tại Hoa Kỳ, chúng tôi mới biết được
nội vụ của lý do khiến chiếc HQ-4 phải đột ngột quay trở lại Ðà Nẵng
lần thứ nhì
như sau: “Tùy viên quân sự Hoa Kỳ tại Sài Gòn (DAO) cho biết radar của
Ðệ Thất Hạm Ðội ghi nhận một số phóng lôi hạm (guided missile frigate)
và chiến đấu cơ MIG của Trung Cộng từ Hải Nam đang tiến về phía Hoàng
Sa. Bộ Tư Lệnh Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa sau
đó yêu cầu Ðệ Thất Hạm Ðội trợ giúp, nhưng không thành công. Các chiến
hạm của Việt Nam Cộng Hòa được lệnh rút bỏ quần đảo Hoàng Sa (Kiem Do
and Julie Kane, Counterpart, A South Vietnamese Naval Officer’s War –
Ðất Mẹ)”.
Khi
HQ-4 đang trên đường xuôi Nam thì Biệt Hải Nguyễn Văn Vượng từ trần.
Một phần vì vết thương anh quá nặng, phần nữa vì trên tầu thiếu phương
tiện và thuốc
men cấp cứu nên anh đã vĩnh viễn ra đi, để lại người vợ cưới chưa được
bao lâu và đứa con chưa tròn năm tuổi. Cuộc hải chiến hào hùng của các
chiến sĩ Hải Quân, các toán Hải Kích Người Nhái và toán Biệt Hải thuộc
Sở Phòng Vệ Duyên Hải, Nha Kỹ Thuật tại quần
đảo Hoàng Sa ngày 19 tháng Giêng năm 1974 đã nói lên ý chí và sự quyết
tâm của người lính QLVNCH, quyết chiến đấu để giữ gìn lãnh hải do Tiền
Nhân để lại, không bao giờ sợ hãi trước đoàn quân xâm lăng của Trung
Cộng.
Biệt Hải Nguyễn Châu
No comments:
Post a Comment